Suzuki trình làng GW250S


Là phiên bản cải tiến từ GW250, chiếc sportbike GW250S có phần yếm xe thiết kế lại, thêm kính chắn gió và tay lái cao hơn.

Phiên bản cải tiến cũng nặng hơn so với trọng lượng 182 kg của bản tiêu chuẩn GW250. Chiều cao yên xe 787 mm, được đánh giá phù hợp với những người mới chơi xe.




Một khách tham quan ngồi thử lên Suzuki GW250S tại Shanghai Auto Show 2013. Ảnh: Minh Thủy.

Phần còn lại của chiếc xe vẫn giống GW250 với động cơ SOHC 2 xi-lanh làm mát bằng chất lỏng với hệ thống phun xăng điện tử cùng hộp số 6 cấp. Công suất xe khoảng 24 mã lực tại vòng tua 8.500 vòng/phút và mô-men xoắn 22 Nm tại vòng tua 6.500 vòng/phút. Mức tiêu thụ nhiên liệu đạt 2,9 đến 3,3 lít/100 km. Kích thước tổng thể 2.240 mm dài, 920 mm rộng và 1.325 mm cao.

GW250S được kỳ vọng thu hút đông đảo khách hàng trẻ và những ai tìm kiếm một chiếc xe đủ mạnh với mức giá hợp lý. Xe được sản xuất tại liên doanh Changzhou Haojue Suzuki và bán ra tại Trung Quốc trước khi Suzuki phân phối sang các thị trường khác.

Read More...

Bộ sưu tập Victory Touring đắt hơn ôtô


Có giá bán thấp nhất từ 21.000 USD tại thị trường Mỹ, cả 5 mẫu xe thuộc đời 2013 đều đã có mặt tại một số thị trường Đông Nam Á như Thái Lan, với giá từ 53.200 USD.

Victory Vision Tour: 21.000 USD ở Mỹ và 56.800 USD tại Thái Lan


Victory Vision Tour sử dụng động cơ 4 thì V-Twin dung tích 1.737 phân khối với hệ thống phun xăng điện tử và hộp số 6 cấp. Tay lái và yên xe đều có sưởi và chỉnh cao thấp. Kính chắn gió cũng có thể điều khiển cao thấp. Chiều cao yên 673 mm. Khoảng sáng gầm 148 mm.

Bình xăng 22,7 lít. Chỗ để đồ có dung tích 110 lít. Thùng đồ phía sau được thiết kế hơi lõm tạo thành chỗ tựa lưng cho người ngồi sau đồng thời tích hợp hai loa. Xe trang bị hệ thống chống bó cứng phanh ABS và điều khiển hành trình. Vành trước 18 inch với lốp 130/70 và vành sau 16 inch với lốp 180/60. Cặp phuộc trước dạng telescopic và phuộc sau đơn.
Victory Cross Country Tour: 22.500 USD tại Mỹ và 53.200 USD tại Thái Lan


Cross Country Tour có nhiều đặc điểm giống Vision Tour, từ động cơ đến thiết kế. Nhưng tổng dung tích chỗ để đồ lên tới 156 lít, bình xăng nhỏ hơn với dung tích 22 lít và chiều cao yên xe 667 mm. Ngoài ra, chỗ để chân cho người ngồi sau có thể tùy chỉnh.

Arlen Ness Victory Vision: 26.000 USD tại Mỹ và 67.200 USD ở Thái Lan


Là phiên bản giới hạn, mỗi chiếc Arlen Ness Victory Vision đều có miếng kim loại gắn số thứ tự cùng logo và chữ ký của chuyên gia độ xe Arlen Ness. Ngoài ra, xe có hình đồ họa đặc biệt màu đen trên nền sơn đỏ. và trang bị hệ thống loa cao cấp Kicker. Xe có khoảng sáng gầm 122 mm, chiều cao yên xe 622 mm. Bình xăng dung tích 22,7 lít.

Cory Ness Cross Country Tour: 29.000 USD tại Mỹ và 68.500 USD tại Thái Lan


Cory Ness Cross Country cũng có số thứ tự cùng logo và chữ ký của Cory Ness, con trai của Arlen Ness. Xe sơn màu vàng với những điểm nhấn màu đen cùng đồ họa do Cory thiết kế. Khoảng sáng gầm 148 mm và chiều cao yên 667 mm.

15th Anniversary Cross Country Tour® Limited-Edition: 30.000 USD tại Mỹ


Kỷ niệm 15 năm ngày thành lập, chỉ 150 chiếc thuộc phiên bản đặc biệt được bán ra với màu đỏ đen, màu sắc của chiếc Victory đầu tiên sản xuất vào ngày 4/7/1998. Logo "15th Anniversary Edition" xuất hiện khắp xe, từ chụp đèn pha, tựa lưng đến bình xăng. Những thông số còn lại đều giống các phiên bản trên.

Read More...

Những mốc lịch sử của siêu môtô Suzuki GSX-R serie

Nổi tiếng với các mẫu Gixxer 1.000, 750 và 600 phân khối, từ khi ra đời Suzuki GSX-R serie đã tạo ra những dấu mốc lịch sử quan trọng thay đổi cả thị trường môtô.

Năm 1985, Suzuki gây bất ngờ lớn khi GSX-R gia nhập làng môtô với chiếc GSX-R750. Năm 2012, để kỷ niệm sự kiện doanh số chạm mức 1 triệu xe, Suzuki sản xuất phiên bản đặc biệt GSX-R1000 One-Millionth với số lượng giới hạn 1985 chiếc-con số đánh dấu năm ra đời của dòng sản phẩm này.

GSX-R750 (1985)

Chiếc đầu tiên trong serie là GSX-R750 1985, chính thức ra mắt vào tháng 9/1984 tại triển lãm Cologne Motorcycle (Đức). Sự ra đời của GSX-R750 là bước đột phá làm thay đổi hoàn toàn quan niệm về superbike thời bấy giờ. Khi ấy, cả bốn ông lớn tại Nhật là Honda, Yamaha, Kawasaki và Suzuki đều sản xuất xe máy dựa trên tiêu chí UJMs. Thuật ngữ UJMs (Universal Japanese Motocycles) do tạp chí American Cycle đưa ra để tổng quan các tiêu chí một chiếc superbike, với đại diện là chiếc Honda CB750.

GSX-R750 ra đời phá vỡ các tiêu chuẩn UJMs. Ảnh: Motorcycle.

Cụ thể, một chiếc UJM cần có động cơ 4 xi-lanh thẳng hàng với mỗi bộ chế hòa khí riêng cho từng xi-lanh, động cơ và hộp số sử dụng chung một vỏ bảo vệ, phanh đĩa cho bánh trước, bộ khung dạng ống tiêu chuẩn, giảm xóc trước dạng telescopic và giảm xóc sau dạng twin-shock truyền thống.

Dưới sức ép thay đổi từ các đối thủ, Honda ra mắt VF serie sử dụng động cơ V4, Yamaha “chào sân” với FZ750 sử dụng 5 van mỗi xi-lanh, Suzuki giới thiệu chiếc GSX-R750 phá vỡ các tiêu chuẩn UJMs và thực sự phù hợp với đường đua. Dung tích động cơ giới hạn của giải đua World Endurance là 750 phân khối, vì thế Gixxer 750 ra đời. Tích hợp thêm đèn và gương chiếu hậu, Suzuki chính thức mở hàng phiên bản thương mại.
GSX-R750 nhanh chóng tiêu thụ số lượng lớn. Ảnh: Photobucket.

Chiếc Gixxer động cơ DOHC 4 xi-lanh làm mát bằng không khí kết hợp dầu nhớt sản sinh công suất cực đại 106 mã lực, trọng lượng khô 176 kg chiếm ưu thế so với các đối thủ cùng phân khúc. GSX-R750 nhanh chóng giành chiến thắng trong các giải đua 24 Hours of Le Mans, Isle of Man TT năm 1985.

Gixxer 750 phiên bản thương mại áp dụng thành công câu nói quen thuộc, “đua chủ nhật, bán thứ hai” (Race on Sunday, Buy on Monday) với số lượng tiêu thụ cao hơn hẳn các đối thủ.

GSX-R1100 (1986)

Phát triển cùng với GSX-R750, mẫu GSX-R1100 ra mắt vào năm 1986 có thiết kế thân thiện, phù hợp hơn với mục đích chạy xe trên đường phố, đạt công suất tối đa 130 mã lực.
GSX-R1100 1986 là môtô đầu tiên sử dụng phuộc cartridge. Ảnh: Suzukicycles.

Tuy nhiên, chiếc Gixxer 1100 vẫn phát triển công nghệ dành cho đường đua, trở thành môtô đầu tiên sử dụng phuộc cartridge (loại phuộc sử dụng cuộn nhiều lá lò xo để che các lỗ tiết lưu, điều tiết lượng dầu chảy qua tạo hoạt động nghịch thường so với các phuộc cổ điển). GSX-R1100 sau này trở thành một trong những môtô được sử dụng nhiều nhất cho đường đua drag racing. Suzuki quyết định ngừng sản xuất GSX-R1100 vào năm 1998.

GSX-R750 “Slingshot” (1988)

Năm 1988, Suzuki đại tu toàn bộ Gixxer 750, cải tiến động cơ 748 phân khối có hành trình piston ngắn hơn, mạnh mẽ hơn để cạnh tranh với các đối thủ có động cơ làm mát bằng chất lỏng. Đặc biệt chế hòa khí thiết kế lại với một bên van bằng phẳng, bên còn lại hình bán nguyệt tối ưu hóa hỗn hợp xăng-không khí đi vào trong xi-lanh, được gọi là “Slingshot” (súng cao su). Đây cũng là “nickname” đầu tiên mà Suzuki đặt cho GSX-R750.
the gioi moto
GSX-R750 1988 với “nickname” Slingshot. Ảnh: Suzukicycles.

Bộ quây (fairing) ngắn hơn, tăng khả năng hướng gió làm mát động cơ, bộ khung nhôm nhẹ và cứng hơn 60% so với phiên bản trước. Những cải tiến giúp xe giành chiến thắng cho cả tay đua và nhà sản xuất tại giải World Endurance năm đó. Năm 1989, Suzuki nâng dung tích động cơ từ 1.052 phân khối lên 1.127 phân khối. Bộ khung cứng hơn, đường kính phuộc tăng lên 43 mm, và lần đầu tiên trang bị lốp đường kính 17 inch.

GSX-R750 (1992)

Đường đua ngày càng khắc nghiệt, để cạnh tranh với các đối thủ Suzuki cũng bắt đầu sử dụng hệ thống làm mát bằng chất lỏng kết hợp cùng bộ làm mát bằng không khí và dầu nhớt truyền thống. Dầu nhớt phun làm mát mặt dưới của piston và két nước giải nhiệt trực tiếp lốc máy bằng chất lỏng.
GSX-R750 năm 1992 với màu sơn “lòe loẹt”. Ảnh: Totalmotorcycle.

Bộ khung và càng mới có độ cứng cao hơn 24% so với phiên bản trước, tốc độ tối đa công bố khoảng 253 km/h (157 dặm/h). Sự thay đổi của khung sườn và động cơ đã giúp Suzuki vươn lênh mạnh mẽ, tuy nhiên vẫn phải vật lộn với sự cạnh tranh khốc liệt bởi các thương hiệu xe Nhật như Honda, Yamaha cũng không ngừng cải tiến công nghệ, đặc biệt sự ra đời của VFR750 động cơ V4 năm 1993. Bên cạnh đó các thương hiệu đến từ châu Âu như Ducati (Italy) cũng phát triển không kém.

GSX-R750 (1996)

Phiên bản năm 1996 có cái tên gọi tắt SRAD (Suzuki Ram Air Direct) đánh dấu một thay đổi lớn cho Suzuki. Gần một thập kỷ từ khi sự ra đời của Gixxer 750 tạo tiếng vang lừng lẫy và đang dần đi vào quên lãng bởi sự vươn lên của các đối thủ nhà Honda mang họ CBR như CBR900RR, CBR600F3.
Thiết kế GSX-R750 1996 mang hơi hướng hiện đại. Ảnh: Motorcycle.

Suzuki mượn công nghệ và kích thước của RGV500, chiếc xe mà Kevin Schwantz sử dụng để dành chiến thắng tại World Championship 1993 cho GSX-R750. Khung nhôm twin-spar có độ cứng tốt hơn thay thế khung nôi đôi truyền thống. Trái tim là động cơ DOHC 4 van mỗi xi-lanh, làm mát bằng chất lỏng kết hợp với thiết kế SRAD tối ưu hóa luồng khí đi vào buồng đốt cải thiện công suất động cơ.

Một lần nữa GSX-R750 giành chiến thắng tại World Endurance vào các năm 1997, 1999 và 2000, đồng thời giúp Mat Mladin lần đầu tiên đăng quang tại giải đua của AMA (American Motorcycle Association), mở màn cho sáu giải thưởng tiếp theo cùng các superbike của tay đua đến từ xứ sở chuột túi.

GSX-R600 (1997)

Thành viên thứ ba họ GSX-R ra mắt chính thức vào năm 1997 để cạnh tranh giải đua supersport bike phân khúc mới, 600 phân khối. Chiếc “mini 750” nhẹ hơn đàn anh 5 kg thiết kế trong hầm gió để tối ưu hóa khả năng khí động học.
GSX-R600 1997 là một chiếc “mini 750”. Ảnh: Mycycledata.

Suzuki cũng không phải đợi lâu để Gixxer 600 thể hiện sức mạnh, giành chiến thắng World Supersport cùng tay đua Fabrizio Pirovano năm 1998 và một năm sau đó cùng với Stephane Chambon.

Năm 2001, Suzuki hoàn tất việc nâng cấp GSX-R600 với bộ khung và động cơ mới, cùng với hệ thống phun xăng điện tử FI lần đầu tiên sử dụng. Trong khi đó, lần thứ ba liên tiếp Mladin đăng quang tại AMA trên chiếc Gixxer 750 phân khối.

GSX-R1000 (2001)

Dù động cơ 998 phân khối nhưng GSX-R1000 chỉ nặng hơn đàn em 750 vỏn vẹn 4 kg. Công nghệ phun xăng điện tử FI, phuộc trước phủ titan được nitơ hóa và má phanh kẹp 6 nồi. Ngay lập tức giành chiến thắng trong các giải đua tại Nhật và thế giới.
GSX-R1000 thiết kế gần với các phiên bản hiện nay. Ảnh: Totalmotorcycle.

Sau đó, các quy định trong đua môtô có sự thay đổi mạnh mẽ, dung tích động cơ cho phép của hạng superbike là 1000 phân khối và 600 phân khối với hạng supersport. Vì thế, tất cả các ông lớn đã ngừng sản xuất xe thể thao phân khúc hạng trung. Nhưng Suzuki thì khác, hãng xe này vẫn giữ truyền thống nên những sportbike 750 phân khối vẫn xuất xưởng cho tới hiện nay.

GSX-R1000 (2005)

Đến nay, đối với nhiều người phiên bản năm 2005 của Gixxer 1000 luôn là cỗ máy tuyệt vời nhất, có lẽ cũng bởi sự cạnh tranh khắc nghiệt đến từ CBR1000RR xuất xưởng trước đó một năm.

Các giải thường mà GSX-R1000 mang về bao gồm vô địch lần thứ sáu của Mladin tại AMA superbike, đội đua Suzuki Castrol Endurance Racing Team giành thêm một giải tại World Endurance, Troy Corser với chiến thắng lần thứ hai tại giải World Superbike sau gần 10 năm kể từ lần đăng quang đầu tiên.

Gixxer 1000 năm 2005 trang bị công nghệ Slipper Clutch. Ảnh: Motorcycle.

Năm 2005, Gixxer 1000 giảm trọng lượng đáng kể và trở thành chiếc xe nhẹ nhất trong phân khúc. Động cơ nâng cấp từ 988 lên 999 phân khối, công nghệ Slipper Clutch gồm một bộ ly hợp giữ bánh sau không bị trượt khi dồn số gấp, bộ quây thiết kế lại khí động học hơn. Ngoài ra còn hệ thống phun nhiên liệu kép đến nay đang ngày càng hoàn thiện trên nhiều xe của các hãng khác nhau.

GSX-R1000 (2007)

Do quy định về khí thải ngày càng khắt khe, GSX-R1000 có thêm bộ ống xả đôi và một buồng lớn bên dưới động cơ để phù hợp với các bài kiểm tra, do đó làm tăng thêm trọng lượng xe một vài kg. Tuy nhiên Suzuki cố gắng để tăng sức mạnh động cơ, bù đắp lại phần trọng lượng tăng thêm bao gồm piston nhẹ làm từ nhôm hợp kim, hệ thống phun xăng điện tử 12 lỗ, bugi làm bằng iriđi, cùng airbox và cửa xả lớn hơn.
GSX-R1000 2007 ống xả đôi. Ảnh: Topspeed.


Năm 2007, tại giải Literbike Shootout do tờ Motorcycle tổ chức, chiếc xe mới của Suzuki dành chiến thắng trước các đối thủ đến từ Nhật Bản với công suất đạt 158, 8 mã lực, lớn hơn 3 mã lực so với chiếc đứng thứ hai. Hệ thống điều khiển chế độ vận hành S-DMS (Suzuki Drive Mode Selector) hỗ trỡ ba chế độ lái khác nhau cho từng loại mặt đường phù hợp

GSX-R600 (2011)

Những phiên bản hiện tại của Gixxer 600 và 750 đều sản xuất từ năm 2011. Suzuki tập trung giảm trọng lượng xe và phát triển hệ thống khung sườn khiến chiếc xe giảm gần 9 kg và trang bị thêm hệ thống giảm xóc Big Piston của Showa và má phanh Brembo.
Gixxer 600 2011 tích hợp hệ thống điều khiển S-DMS. Ảnh: Totalmotorcycle.

GSX-R600 sử dụng động cơ 599 phân khối với 4 xi-lanh thẳng hàng làm mát bằng dung dịch, công suất 124 mã lực. Hộp số 6 cấp. Xe cũng có hệ thống điều khiển chế độ vận hành S-DMS.

Mặc dù không dành nhiều thành công trên đường đua nhưng GSX-R600 vẫn là một chiếc sportbike được ưa thích trong phân khúc 600 phân khối.

GSX-R1000 (2012)

Ra mắt vào thời điểm Suzuki đang gặp khá nhiều khó khăn về tài chính, đồng thời làn sóng superbike châu Âu ngày càng được ưa chuộng, Gixxer 1000 phiên bản mới nhất không quảng cáo rầm rộ như các đàn anh đi trước, nhưng với những đặc điểm chất riêng của phiên bản giới hạn, chắc chắn chiếc môtô này vẫn gây được tiếng vang lớn.
GSX-R1000 One Millionth phiên bản giới hạn 1.985 chiếc toàn cầu. Ảnh: Motorcycle.

Những đường nét thiết kế khí động học, tối ưu hóa khả năng thông gió làm mát động cơ sử dụng trên Gixxer 600 và 750 sẽ đưa lên phiên bản 1000. Suzuki một lần nữa giảm thiểu trọng lượng xe. Ống xả đôi thay thế bằng ống xả đơn. Má phanh hàng hiệu Brembo khiến xe nhẹ hơn 2 kg so với phiên bản trước.

Phiên bản đặc biệt GSX-R1000 One Millionth kỷ niệm mốc 1 triệu xe bán ra đặc trưng bởi những đường nét nhấn mạnh như đường bao đèn pha màu đỏ, má phanh hàng hiệu Brembo màu đen, vành xe sơn trắng, phuộc màng vàng và logo One Millionth được đánh dấu ngay trên số series. Số lượng giới hạn 1.985 chiếc trên toàn cầu để kỷ niệm năm ra đời dòng xe thể thao danh tiếng.

Đức Huy

Read More...

“CHIẾN BINH” YAMAHA FZ8 2013 TRÌNH LÀNG


Yamaha vừa giới thiệu phiên bản 2013 của mẫu naked-bike FZ8 tại triển lãm môtô được tổ chức 2 năm một lần – Intermot (Đức). So với phiên bản trước, những thay đổi quan trọng trên Yamaha FZ8 2013 gồm cụm giảm xóc trước tự điều chỉnh, hệ thống EFI cải tiến giúp phản ứng bướm ga mượt mà và tiết kiệm nhiên liệu hơn. Bên cạnh đó, ống xả trên FZ8 2013 đã được thiết kế lại với diện mạo đương đại, trong khi ghế ngồi hai phần được nâng cấp bằng vật liệu cao cấp. Yamaha FZ8 2013 vẫn sử dụng khối động cơ 779 phân khối, phun nhiên liệu trực tiếp, làm mát bằng dung dịch. Động cơ đạt công suất 102 mã lực tại vòng tua máy 10.000 vòng/phút, mô-men xoắn cực đại 82 Nm tại vòng tua máy 8.000 vòng/phút.

Khung sườn FZ8 chia sẻ với mẫu xe 1.000 phân khối Yamaha FZ1. Chiều cao yên tính từ mặt đất là 815 mm. Vị trí ngồi của FZ8 thiết kế lại so với FZ6 để thuận tiện cho người lái hơn. Yamaha FZ8 trang bị thắng đĩa kép đườg kính 310 mm cho bánh trước, thắng đĩa đơn 267 mm cho bánh sau. Xe sử dụng vỏ (lốp) trước 120/70 ZR17, vỏ sau kích thước 180/55 ZR17. Tổng trọng lượng khô 212 kg.

Yamaha FZ8 2013 sẽ có mặt tại các showroom từ tháng 2 năm tới với các màu xám/đen mờ và được có giá bán 8.890 USD. Theo Autodaily

Read More...

Vincent Motorcycle – Tượng đài tốc độ sau thế chiến thứ II


Hoài niệm về một quá khứ đầy máu lửa của những chiếc xe thuộc gia đình Vincent khiến nhiều người mê xe không thể rời mắt khỏi chiến mã lừng lẫy một thời này.
Bản độ Vincent Motorcycle này thực chất là một chiếc xe cổ Rapide hiện thuộc sở hữu của Marty Dickerson. Đây là chiếc rất nổi tiếng với nickname “Blue Bike” hiện đang được đưa đi dự triển lãm ở một studio chuyên thiết kế ở Altai, Los Angeles, Mỹ.

Vincent Motorcycle sở hữu kiểu dáng khá máu lửa

Chiếc xe cổ này sở dĩ được chú ý đặc biệt như vậy là bởi chính màu lịch sử nó sở hữu trên thân hình cảm giác có phần mỏng manh. Lần cuối cùng chiếc xe này từng tham dự những cuộc đua ở bình nguyên muối Bonneville là vào năm 1997 cùng chủ nhân của mình là Marty Dickerson.

Dickerson đã mua Vincent Motorcycle vào năm 1948 khi ông mới 18 tuổi. Vào thời điểm đó phiên bản này được xem như là một trong những chiến mã nhanh nhất thế giới. Chính vì vậy, chẳng mấy khó hiểu khi Marty Dickerson đăng ký tham dự những cuộc đua vào thời đó.

Vào năm 1950, Marty Dickerson đã sơn lại phiên bản này với màu xanh như chúng ta nhìn thấy và đạt được những kỷ lục mới của làng đua xe thời đó là 147,58 dặm/ giờ. Và cũng chính từ những thành tích đó, chiếc xe của Marty Dickerson đã được nhiều người biết đến cùng màu sơn đặc biệt lúc đó mà nó sở hữu.

Nhận xét về độ hiếm của phiên bản Vincent Motorcycle, Paul d’Orléans, một tác giả chuyên viết nhận xét về những chiếc xe cổ trên một tạp chí chuyên về các loại xe cổ hoặc được thiết kế theo phong cách cổ điển đã viết: “Số lượng các loại xe dám ghi dấu ấn với những pha mạo hiểm cách đây 50 chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay. Hiếm như vậy lại còn có thể đạt được những kỷ lục thế giới về tốc độ tại bình nguyên muối Bonneville thì quả thực là rất hiếm hoi.”






Read More...

Ngắm dàn xe Vespa huyền thoại



Ngày 26/4 tới là kỷ niệm lần thứ 67 ngày Enrico Piaggio tới Cơ quan sáng chế trung ương của Italy để đăng ký độc quyền mẫu xe máy mới, mà sau này nổi tiếng với tên gọi Vespa.

Sản phẩm Vespa đầu tiên được công bố tại triển lãm Milan năm 1946, và ngay trong năm đầu tiên này, Piaggio đã sản xuất 2.484 chiếc Vespa tại Italy trước khi sản lượng tăng lên 10.535 chiếc vào năm 1948. Tới năm 1950, Piaggio mở rộng sản xuất tới Đức, tăng sản lượng lên 60.000 chiếc và huyền thoại Vespa bắt đầu lan rộng ra khắp thế giới.



Nguyên mẫu Vespa MP6.

Vespa 98 năm 1946.

Vespa 125 năm 1948.

Vespa Seigioni năm 1952.

Vespa 150 GS năm 1955.

Vespa 125 năm 1958.

Vespa 50 năm 1963.

Vespa 90 SS năm 1966.

Vespa 125 Primavera ET3 năm 1976.

Vespa PK năm 1983.

Vespa ET4 125 năm 1986.

Vespa LX 125 2006.

Vespa 946 đời 2014.

Read More...

Ngắm Honda Gold Wing độ 4 bánh độc nhất vô nhị tại Sài Gòn


(Autotv.vn) - Được mệnh danh là “ông vua đường trường” của Honda, Gold Wing chắc hẳn không còn quá xa lạ với những tín đồ đam mê mô tô. Tuy nhiên, sự xuất hiện của chiếc Gold Wing được một dân mê xe Sài Gòn đặt bộ kit 4 bánh từ Mỹ để "lên đời”, hẳn sẽ khiến không ít người ngỡ ngàng.

Ấn tượng đầu tiên về Honda Gold Wing độ 4 bánh độc đáo này chính là kiểu dáng bên ngoài khá đồ sộ so với các mẫu mô tô thông thường. Được trang bị bộ kit 4 bánh cùng những chi tiết được sáng tạo theo ý tưởng của chủ xe, Honda Gold Wing độ 4 bánh xứng đáng là “bậc đàn anh” khi đứng cùng những mẫu Gold Wing nguyên bản, nếu xét về mặt ngoài hình.

Honda Gold Wing độ 4 bánh độc đáo


Từ nguyên bản của một chiếc mô tô hai bánh, Honda Gold Wing đã được thay đổi toàn bộ ở hệ thống khung sườn để phù hợp hơn với thiết kế bốn bánh.

Kiểu dáng và kích thước của chiếc xe không hề thua kém các mẫu xe hơi. Phần đầu xe được mở rộng và kéo dài ra phía trước, với những đường nét thiết kế không quá rườm ra gồm lớp mặt nạ khá lớn tạo nên từ những thanh thép đặt thẳng đứng. Kết hợp với cụm  đèn pha nổi đặt hai bên và được kéo dài ra phía sau góp phần tạo nên nét hầm hố cho chiếc xe. Xe còn được trang bị thêm các dải đèn Led đa sắc ở hai bên bánh xe trước, và phía sau.



Phần đầu xe mang dáng vẻ hầm hố với thiết kế khá lạ mắt.



Cụm đèn pha khá lớn.

Trong khi đó phần phía trên đầu xe vẫn giữ nguyên những đường nét truyền thống của những chiếc Honda Gold Wing, với kính chắn gió bố trí cao và cụm gương hậu tích hợp đèn xi-nhan đặt ở hai bên.



Phần đầu xe phía trên vẫn giữ nguyên đường nét của những chiếc Gold Wing truyền thống.

Thân hình khổng lồ của Honda Gold Wing còn là sự kết hợp hài hòa giữa nhiều chi tiết. Bốn bánh xe sử dụng loại lốp của những chiếc xe hơi đi kèm với bộ mâm đa chấu với kiểu dáng khá bắt mắt.



Hệ thống lốp xe đi kèm bộ mâm đa chấu nổi bật.



Đặc biệt, phần đuôi xe được mở rộng đáng kể với những đường nét cơ bắp toát lên vẻ mạnh mẽ và hầm hố. Điểm nhấn đáng chú ý ở phía sau chính là cụm đèn hậu được mở rộng ra kết hợp dải đèn LED ở hai bên và phía trên cánh gió. Khoang chứa đồ của Gold Wing vẫn được giữ nguyên trên bản độ đặc biệt này. Ngoài ra, bảng tap –lô điều khiển, hệ thống tay lái và yên xe được thiết kế rộng với tựa lưng cho cả người lái và người ngồi sau được lấy lại nguyên bản từ phiên bản gốc.



Phần đuôi xe được mở rộng.



Động cơ 1.832 phân khối của Gold Wing là thứ giúp Honda trở thành bậc sư phụ so với nhiều hãng xe khác, những đối thủ mới chỉ mơ tới việc chế tạo ra một tuyệt tác tương tự. Một trong số những đặc điểm ấn tượng của Gold Wing là hệ thống cảnh báo áp suất lốp.



Hệ thống lái được trang bị trên xe.

Để tạo nên chiếc Honda Gold Wing 4 bánh độc đáo này, chủ nhân của chiếc xe đã mất hơn tám tháng ròng chờ đợi. Kể từ khi nhập nguyên bản chiếc Gold Wing 2012 cùng bộ kit 4 bánh và những chi tiết khác để chế tạo và đưa ra lò mẫu xe “có một không hai này”.



Các nút điều khiển trên tay lái.



Màn hình điều khiển trung tâm.

Tuy nhiên Gold Wing độ 4 bánh không chỉ  được tạo ra để thỏa mãn niềm đam mê của chủ xe, mà bên cạnh đó mục đích chính là để tham gia vào các hoạt động xã hội cùng với Liên đoàn mô tô thể thao Tp.Hồ Chí Minh. Sắp tới mẫu xe này sẽ tham gia vào công tác dẫn đoàn và mở đường cho giải đua xe đạp tranh Cúp Truyền hình TP.HCM lần thứ 25 với tên gọi “Non song liền một dải”.



 Gold Wing độ 4 bánh sẽ đảm lãnh trọng trách dẫn đoàn đua xe đạp tranh Cúp Truyền hình TP.HCM lần thứ 25 với tên gọi “Non song liền một dải”.



Sau khi hoàn thành những công đoạn cuối cùng, Gold Wing độ 4 bánh sẽ được chuyển ra Hà Nội để phục vụ cho công tác chuẩn bị của giải đua. Những tín đồ đam mê mô tô trên cả nước sẽ có dịp chiêm ngưỡng mẫu xe này, trong chuyến hành trình trải từ Bắc vào Nam cùng với giải đua xe đạp tranh Cúp Truyền hình TP.HCM.



Trình làng vào những năm 70 của thế kỷ trước, nhờ trang bị động cơ cỡ lớn, tư thế ngồi thoải mái, nên Gold Wing được mệnh danh là limousine hai bánh, mẫu xe hoàn hảo cho những chuyến đi xa.



Hốc hút gió được thiết kế khá lớn.



Yên xe được thiết kế rộng với tựa lưng cho cả người lái và người ngồi sau được lấy lại nguyên bản từ phiên bản gốc.



Gương hậu tích hợp đèn xi-nhan.





Nút điều khiển các chức năng trên xe.



Dải đèn LED được lắp đặt phía sau.



Các chi tiết phần đầu xe.





Bài & Ảnh: Bá Hùng - Viên Huy

Read More...